“Trông nó giống hóa thạch, có thể là trứng khủng long…” Một người suy đoán.

“Không, nó quá tròn để là một quả trứng.” Một người khác phản bác, mọi người đều biết tất cả các loại trứng đều có dạng hình cầu thon nhọn một đầu và phình tròn đầu còn lại.

“Mọi người trật tự, chúng ta là nhà khảo cổ, không phải nhà sinh vật học… quả trứng này (hoặc có thể là bất kì thứ gì) sẽ gửi cho người chuyên môn để xem xét.” Ông Newman kết luận.

“Đúng vậy, mọi người xem còn tìm thấy thứ gì không?” Bà Newman chuyển chủ đề.

Sau nửa tiếng lục lọi, bọn họ không tìm thấy vật gì đáng kể cả, lúc này ông Newman lạc quan đưa ra một giả thuyết táo bạo:

“Giả thuyết rằng cái hòm là từ một con thuyền thương nhân bị đắm, nếu vậy ta có thể tìm được con thuyền, từ con thuyền ta sẽ lấy được manh mối những đồ vật Briton.”

“Như vậy, xác tàu phải tìm thấy từ lâu rồi, khu vực này có rất nhiều ngư dân, họ không phát hiện xác tàu nào…” Một người đồng sự chần chừ nói.

“Xác tàu bị chôn vùi hàng trăm năm, có thể một biến cố nào đó khiến cái hòm xuất hiện, chúng ta xem lại dữ liệu địa chất trong khu vực.” Bà Newman đề nghị.

Mọi người đồng ý, họ trở lại cái bàn nơi chất thành đống giấy là giấy, rất nhanh một tài liệu được tìm thấy, bà Newman nói:

“Trên này ghi vào ngày 10 tháng 10 năm 1980, lúc 2 giờ 36 phút sáng, một cơn địa chấn nhỏ 3,2 độ rít-te độ sâu 20 km. Sau đó liên tiếp ba ngày, lớn nhỏ xảy ra hai mươi vụ động đất các loại.”

“Rất có khả năng chính cơn địa chấn đó khiến con truyền ngoi lên trên đáy biển…” Ông Newman vuốt cằm nói.

“Mặt khác, cũng trong thời gian đấy, tại đậy hình thành một cơn bão nhỏ, biển động rất mạnh…”

“Có thể con tàu luôn nằm ở đó, qua rất nhiều năm, nó bị san hô bám trên bề mặt nên chúng ta thể không thấy nó, mặt khác, thời Thánh chiến, tàu bè chỉ đóng bằng gỗ, không biết đến giờ nó bị mục nát hết không?”

“Không bi quan tới vậy, nhìn chất liệu làm ra cái hòm, con tàu có thể được đóng bằng một số loại gỗ tốt, may mắn ta có thể tìm thấy thân tàu hoặc ít nhất một vài mảnh vỡ?”

Mọi người bàn bạc, rồi bọn họ quyết định dành nốt buổi chiều tìm kiếm những vật khác, có thể chúng bị nước biển cuốn từ trong cái hòm ra ngoài, nếu may mắn họ có thể tìm thấy xác tàu hay ít nhất một vài mảnh vỡ.

Đúng lúc này, Baemyn tiến tới nói với ông Newman:

“Cậu Newman, chúng tôi e rằng không thể tiếp tục tham gia chuyến khai quật cùng mọi người được?”

“Sao vậy, ngài có chuyện gấp à?” Ông Newman ân cần hỏi.



“Đúng vậy, từ sáng tới giờ chúng tôi chưa về nhà?” Baemyn híp mắt nói.

“Ngoài ra, cậu có thể đưa cây quyền trượng với quả trứng cho tôi được không?”

“Cây quyền trượng, quả trứng, nhưng chúng tôi vẫn chưa biết gì về chúng cả?” Ông Newman nhíu mày, khó khăn nói.

“Không sao, cậu chủ của tôi muốn hai vật đó, đơn thuần vì thích thôi, mấy hôm nữa cậu bé chán, tôi lại gửi cho cậu.” Baemyn tiếp tục nói.

“Việc này… Thôi được, tôi sẽ đưa chúng cho ngài, mong ngài giữ chúng cẩn thận.”

Ông Newman quyết định nói, tuy ông không lỡ nhưng dù sao trên danh nghĩa tất cả chúng thuộc về nhà Karling, ông cũng không muốn làm mất lòng vị chủ đất này, cuộc khai quật mới bắt đầu, có rất nhiều manh mối tìm thấy. Ông không thể dừng lại giữa chừng được.

“Cảm ơn cậu Newman, chúng tôi xin về trước, chúc cậu tìm được thứ cậu muốn.” Baemyn gật đầu chân thành nói.

“Cảm ơn lời chúc tốt lành của ông, tôi sẽ để Jod mang hai người về đất liền.” Ông Newman cũng cười đáp lại.

Sau khi chào tạm biệt, Ambrose và Baemyn xuống cano rồi đi lên bờ, thật là một ngày đáng giá, thật may là cậu đi theo ông bà Newman, nếu không cậu đã bỏ qua hai thứ giá trị.

Trên đường đi tới trang viên Karling, Ambrose nhớ ra một chuyện hỏi Baemyn:

“Chúng ta hiện tại đang thiếu tiền phải không?”

Baemyn giật mình, chân ông bước chậm lại, tại sao cậu chủ lại hỏi vậy, ông nói:

“Không, cậu chủ yên tâm, chúng ta không thiếu tiền.”

“Không thiếu, vậy tại sao bác lại phải bán cái bình Louis VI đó?” Ambrose hỏi tiếp.

“Cái này…” Baemyn không biết nói sao. Ông không ngờ Ambrose lại chú ý tới chi tiết nhỏ như vậy, đấy là cái bình mà vợ chồng Newman đã nhắc tới lúc nãy.

“Có chuyện xảy ra bác không phải một mình nghĩ cách giải quyết, cháu tuy chưa trưởng thành nhưng chuyện về nhà Karling cháu nghĩ mình có tư cách biết…” Ambrose kiên quyết nói.

“Nếu cậu chủ muốn biết thì tôi xin nói…” Baemyn thở dài nói.

Nói thẳng ra là tình trạng kinh tế hiện nay của nhà Karling không tốt lắm, tiền thu vào miễn cưỡng để chi tiêu.

Nhà Karling vốn không phải gia tộc giàu có cho lắm (so với những quý tộc phù thủy đỉnh cấp), nguồn thu nhập chính là từ việc vận chuyển, trung gian giữa Anh quốc với Pháp hoặc các quốc gia khác ở châu Âu.

Lúc vợ chồng Karling còn sống, cộng với nhiều quan hệ của ngài Patrick Karling để lại, hoàn cảnh gia đình khá hơn rất nhiều. Mà giờ, vợ chồng Karling mất sớm, nhiều người cùng lứa tuổi với ngài Patrick cũng qua đời hoặc không tham gia vào sự việc của gia tộc nữa. Một thế hệ khác lên thay, họ không biết nhà Karling là ai, hay quan tâm nhà Karling như thế nào.

Điều này dẫn tới thực trạng “hụt” mất rất nhiều mối quan hệ, cho dù Baemyn có giỏi tới mất thì trong mắt đa số phù thủy (nhất là mấy quý tộc thuần huyết phù thủy) ông chỉ là một tên làm thuê máu bùn bẩn thỉu thôi. Có lúc, họ còn không thèm đàm phán với Baemyn.

Cứ như vậy, chỉ trong mấy năm ngắn ngủi, rất nhiều sinh ý của nhà Karling biến mất. Nếu có đối tác nào giữ lại được thì sẽ bị ép giá, lợi nhuận rất thấp. Ngoài ra, Baemyn phải chi rất nhiều tiền mua dược liệu điều chế thuốc chữa trị thân thể cho Ambrose. Con số này vô cùng khổng lồ.

Ba năm trước, nhà Karling không còn đủ tiền để tìm kiếm vị thuốc Tinh hoa biển sâu, Baemyn buộc phải bán đấu giá ba món đồ cổ trong hầm tại Gringotts. Số tiền thu được đủ duy trì tới hiện nay. Nếu không có cách cải thiện, thì có khi ông phải bán tiếp mấy món khác.

Nghe Baemyn kể, Ambrose giật mình, không ngờ tình trạng lại bết bát tới vậy, cứ nghĩ tới việc phải bán kỉ vật của cha, ông, của tổ tiên Karling để lại làm lòng cậu chua sót. Cậu định nghĩ cách thoát khỏi tình trạng trên, nhưng thứ xuất hiện trước mặt khiến cậu buộc phải dừng suy nghĩ.

Lúc này, hai người đã đi tới trang viên, nó giờ là một đống đồ nát, những bức tường ám khói đen thui, mấy thanh xà vung vãi khắp nơi,...

Ngôi nhà ba tầng với những hàng cây leo cổ kính trong trí nhớ cậu chỉ còn một đống đổ nát, quỷ lửa đã thiêu rụi mọi thứ, không phép thuật nào có thể phục hồi căn nhà như trước.

Càng nhớ lại, Ambrose càng thấy tức giận, cậu thầm rủa bọn áo đen đáng chết, còn có tên Chúa tể của chúng.

Ambrose trút sự tức giận của mình bằng một cú đấm thật mạnh vào cây liễu bên cạnh, nước mắt chảy ra, hai môi cậu bé mím chặt như kìm nén tiếng khóc, rồi cậu đứng đó im lặng không nói một lúc lâu.

Baemyn muốn tới khuyên cậu bé, nhưng ông biết rằng, chỉ khi Ambrose vượt qua kí ức đau khổ đó, thì nó mới ảnh hưởng tới sự phát triển của cậu sau này. lúc này ông cũng trộn lấn rất nhiều cảm xúc, tình cảm đối với nhà Karling, với bố mẹ Ambrose, sự bất lực, hổ thẹn,...

Ông nhớ lại rất nhiều chuyện, nhiều kỉ niệm của mình ở đâu, rồi ông giờ chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là bảo vệ an toàn cho Ambrose, ít nhất tới khi cậu bé trưởng thành và tự lo cho mình.

Cuối cùng Ambrose lên tiếng:

“Chúng trở về…”

“Vâng.” Cậu bé có lẽ đã vượt qua...

Hai bóng người một lớn một nhỏ từ từ đi xa.